I
Chỉ huy hầu đã dời chân lánh nàn
Tìm lên Dương định Hương sơn
“Mai danh ẩn tích” cùng con nơi này
Điền viên canh cửi qua ngày
“Mưu đồ đại chí” ai hay được nào
Chim hồng vốn thích bay cao
Rồng vàng đâu chịu nằm ao tù hoài
Cụ bèn “đi lính” thay người
Những mong chớp lấy cơ thời lớn lao
Nào ngờ mưu đạt khó cao
Chức danh chỉ đạt bậc vào “chỉ huy”
Chuộng tài mến đức phục uy
Nhân dân tôn tặng chỉ huy lên “Hầu”
Từ đây con cháu về sau
Truyền nhau quen gọi là “Hầu chỉ huy”
Để cho hậu thế đều ghi
“Can xuân” biệt hiệu nghĩa suy lâu dài
Nghi – xuân phát tích quê Người
“Tiên điền tiến sỹ” đúng lời con em
Còn về thế thứ tuổi tên
“Mai danh ẩn tích” nên phiền cháu con
Nghi – xuân cách trở Hương – sơn
Giao thông hồi đó đang còn khó khăn
May nhờ có cụ Duy Tân
Học nhiều biết rộng, lưu tâm Tiên điền
Cụ Dư sau tới cụ Phiên
Tầm nguyên bái tổ Xuân tiên mấy lần
Dựa vào gia phổ Hương tuần
Đổi bên đối chiếu nhiều phần đáng tin
Gia đình hai cụ đoàn viên
Cụ bà Phan Thị Thắm duyên bội phần
Cùng quê Dương định đồng lân
Tháng ngày hai cụ tảo tần lập cơ
Đất mạch còn dấu gia cư
Di tích tảng đá trắng giờ còn nguyên
Đến hồi thoát cảnh truân chuyên
Dựng gầy cơ nghiệp bình yên lưu truyền
Mười tư tháng bảy <14/7> quy tiên
Mộ phần an táng núi miền Đồng Hung
Vào năm Canh ngọ <1990> nhớ nhung
Cháu con xây mộ cụ ông đàng hoàng
Cụ bà tháng chạp đông sang
Mất ngày mười sáu <16/12> hoa tàn xót thay
Yên cư lạc nghiệp từ đây
Cành chi phát triển, tháng ngày lưu huy
Ông bà sinh hạ một chi:
XXX
Văn-Giáo là chữ, tước thì Nhiêu Nam
Nghề nông cần kiệm lo chăm
Ruộng vài ba mẫu khả kham lâu dài
Ông mất tháng một ngày hai <2/11>
Bà là Phan thị… một ngày sớm hơn <1/11>
III Đời sau Văn Nhã lên dần
Cuộc đời nay đã lần lần đổi thay
Cụ đà tính chuyện lâu dài
Xe duyên cùng cụ có hai vợ hiền
Chính thất Phan thị tên Viên
Mất ngày mười bốn thượng huyền tháng hai <14/2>
Cụ ông hai bốn là ngày
Tháng là mười một tiết này sang đông <24/11>
Sáu mươi tuần thọ trung dung
Mộ phần hai cụ táng chung xóm Bàu <Kẻ Đọng >
Chí công cần kiệm đi đầu
Đầy lòng nhân hậu thắm bầu nhiệt tâm
Sáu trai hai gái hương trầm
XXX
IV Trưởng là Văn Quán lo chăm mọi đường
Vợ là thị Điểm <1773/1855>đảm đương
Tám ba tuổi thọ, giử đường tiết trinh
Chăm nuôi cháu nội thành danh
Duy Tân ăn học thi thành cử nhân
Tháng mười hai tám <28/10> hạ tuần
Vào năm Ất Mão <1855> xa dần cõi dương
Cụ ông mất sớm mà thương
Thọ ngoài ba chục non thường hận tâm
Tháng hai đúng độ hôm Rằm <15/2>
Thác non thua thiệt thương tâm tơ vò
Mộ ông táng tại Bến Kho
Mộ bà Đất Đỏ nếp gò cùng thôn
Cùng chung cuộc sống hàn ôn
Ông bà sinh hạ ba con nối dòng
Hai trai một gái tơ hồng
Gái đà sinh trưởng lấy chồng họ Lê
Hai trai nổi dõi ấy thì
Mệnh danh Hoa, Thuận, hai chi chu toàn
XXX
IV Người em tên gọi Trọng Khoan
Thiếu chân thừa từ không toàn tiếc tha!
Bao nhiêu cơ nghiệp xưa rày
Xét xem lịch sử máy hàng
Phó cho người cháu sau này đảm đương
Xét xem lịch sử mấy hàng
Sinh thời loạn lạc nên càng khó khăn
Mấy đời lo việc làm ăn
Học hành sách vở có phân lặng im
Vấn đề ghi chép im chìm
Cộng thêm thất lạc nay tìm khó ra
Vậy nên hành trạng ông bà
Cả về tuổi tác thật là khó ghi!
Tiếp theo các vị cùng chi
Con bà kế thất đạt bề tốt tươi
Thiết, Huân, Lạng ,Quế bốn người
Cụ Huân trong đó là người có công
Giữ chức Ngũ trưởng quân phòng
Nhớ lưu gia phổ mấy dòng trên đây
Vậy nên cho đến ngày nay
Chúng ta mới rõ những ngày xa xưa
XXX
IV Hai ông Thiết, Lạng không ngờ
Không còn con cháu đến giờ số không
XXX
Hai ông Huân Quế lưu dòng
IV Cụ Huân sinh hạ một ông tên Cường
Ông Cường sinh được ông Đương
“Thông chức” quen gọi tên thường biệt danh
Ông Đương sinh Thọ, Phúc, Mành
Phúc, Mành phạp tự chịu đành thiệt chung
Thọ sinh hai vị Dũng, Dùng
Và cô con gái đã cùng yêu thương
Đẹp duyên cùng với Trần Đường
Cạnh nhà thờ họ quê hương xóm Trằm
Dũng, Dùng hai vị vào Nam <1954>
Đức lập, Đắc lắc vừa thăm được nhà
######
IV Riêng về cụ Quế nhà ta
Một đời kết bạn hai bà trước sau
Chính thất sinh một gái đầu
“Bà Tuần” là vợ nghĩa sâu Phan Hàm
Kế thất chia sẽ trân cam
V Một trai sinh hạ thanh nhàn: Nguyễn Hương
“Ký Nông” <1859/1940> được gọi tên thường
Vợ là con vị đồng hương Vũ Hàn
Sinh ra trai gái một đoàn
Chín con thành nghiệp an toàn được năm
Gia đình thờ chúa thành tâm
Gái là : Mái, Bảy, Tám, Năm, bốn bà
Ba bà xuất giá thôn nhà
Gái đầu thị Mái chồng là Lý Quang
Thị Năm chống ở trong làng
Tổng Tài cao đẹp thuộc hàng lương duyên
Thứ ba Thị Bảy: Nghĩa Quyền
Thứ tư thị Tám gả miền Sơn – an
Chỉ sinh một gái: thị Đàn
Bà này sớm thắc không toàn xót thương,
XXX
Về ông con út cụ Hương
VI Tên là Văn kính qua đường Hán văn
Tuy đời ít hưởng ngày xuân <1906/1946>
Nhưng người công chính nghĩa nhân đức hiền
Trai thanh sánh gái thuyển quyên
Con ông Tổng Cự kết duyên tốt lành
Năm trai ba gái sinh thành
XXX
Mạnh Thuần <1926> là trưởng xuất hành vào Nam
Thị Tao là vợ tình thâm
Bốn trai hai gái hoan tâm vừa thì
VII Phương Mai, Minh Đức, Mạnh Thi
Tư là Minh Phú, năm thì Hoa Dung
Thanh Quỳnh thứ sáu cuối cùng
Theo anh Minh Phú vượt trùng dương đi
Kỷ sư điện tử tinh vi
Băng mình qua đất Hoa kỳ phương tây
Mạnh Thuần định quán ngày nay
Hiếu tình mẫu tử càng ngày quý thân
Sài gòn thành phố yên chân
Học nhiều biết rộng, thời xuân lắm nàn
Ngày nay đã tạm thanh nhàn
Thờ trời kính Chúa chu toàn yên tâm
XXX
VII Trọng Mân <1929> cũng đã vào Nam
Thị Hương duyên hợp họ Phan kết nghì
Bốn trai ba gái đề huề
VIII Thế Vinh, Hữu Phước có bề tư phong
Minh Hường, Mỷ Thiện, Cẩm Hồng
Quốc Lâm tiếp nữa út chung Thái Bình
Riêng về Hữu Phước quang vinh
Kỷ sư linh mục, thiệt tình tài hoa !
XXX
VII Đến lần Duy Kỷ <1931> thứ ba
Gia đình xuất cảnh vượt qua Hoa kỳ
Tuyết Trinh Trần thị sính nghi
Quê hương Quảng trị có bề đảm đang
Ba trai hai gái một hàng
VIII Duy Linh là trưởng phong bằng kỹ sư
Duy Lương trai đứng thứ tư
Tuyết Lan thương mại kỹ sư tinh tường
Tuyết Ly sớm thác càng thương !
Quốc Hưng là út chung đường viễn du
VII Như Cương <1934/1998> đến lượt thứ tư
Thị Lan là vợ bay giờ xe tơ
Gia đình đầm ấm yên cư
VIII Sinh Như Khiêm với Quỳnh Như nối đời
Như Long sớm thác thiệt thòi !
Khuê, Trâm, Khánh: gái ; Khuê tài kỹ sư
XXX
VII Thứ năm Hùng Thiệu <1937> di cư
Vào Nam lấy vợ quê từ Nghệ an
Họ Hồ tên gọi Kim Loan
Sinh ra bốn gái lo toan gia đình
Ấy là Ánh Tuyết, Nguyệt Minh
Trúc Ly mỹ mạo diễm hình Thuỳ Trâm
XXX
Còn ba cô gái cành trâm :
Con ông Cán Kính hương trầm đượm duyên
Ấy là Nguyễn thị Hồng Liên<1940>
Chồng là Tiến Hạnh quê miền Sơn -an
Hồng Liên sớm thác gian nan
Còn cô út nũa Hồng Loan <1946> lượt là
Chồng Trần xuân Sáng quê nhà
Giáo viên Anh ngữ nổi đà tiếng khen
Vợ chồng nay đã tới bên
Hoa kỳ hợp chủng cách miền quan san
Cháu con ông Kính vào Nam
Chúc cho các vị bình an phúc lành
XXX
Cụ Huân cụ Quế hai cành
Cháu con đều đã xuất hành phương xa
Bắc Nam đều nước non nhà
Gốc chung, cây đã trổ ra nhiều cành
Đông Tây thăm thử hành trình
Cánh bằng vượt quá Thái bình đại dương
Xa hơn hai vạn dặm đường
Cách mặt nhưng dạ vẫn thường nhớ nhau
Hai miền lục địa đại châu
Tu nhân tích đức ở đâu cũng thành
Miễn là đức tốt lòng lành
Chúa cùng Tiên tổ đều dành phúc linh
******
Hơn ba thập kỷ hành trình
Năm năm tư <1954> ấy nước mình trải qua
Chiến tranh bảo vệ nước nhà
Chống quân giặc Pháp kể đà tám năm <1946-1954)
Toàn dân đánh giặc ngoại xâm
Được phe dân chủ đồng tâm giúp vào
Liên xô trụ cột đứng đầu
Trên trường quốc tế yêu cầu hai phe
Tiến hành hội nghị Giơ – ne <GENEVE>
Mục tiêu giải quyết vấn đề Đông dương
Ghi trong hiệp nghị tỏ tường
Các bên công nhân đôi đường phân minh
Một là độc lập nước mình
Hai là đình chỉ chiến tranh từ rày
Phía ta thực hiện đúng ngay
Nhưng phe Pháp-Mỹ mưu đẩy gian tham
Gây thành chia cắt Bắc Nam
Hô hào di tản đã làm khổ dân
Nhiều người không ổn làm ăn
Đã rời quê Bắc vào Nam chuyển vùng
Bà con thương nhớ cùng
Đang vui đoàn tụ bỗng dưng xa rời
Họ ta trong có mấy người
Nay xin bày tỏ mấy lời chúc thăm
Mong vì gia tộc tình thân
Đổi trao thư tín tương tầm gia thanh